Đặc điểm Larimichthys crocea

Bề ngoài

Cá đù vàng có thân hình thoi dài, hẹp một bên. Thân phủ vẩy, vẩy tại phần đầu mềm, nhưng cứng tại phần thân còn lại. Mõm tù, miệng rộng, hàm trên kéo dài tới phía sau đến gần mắt. Răng mọc hàng đôi nơi cả hai hàm. Hàm dưới có mẩu răng gần mút ngoài. Bong bóng hơi có hình củ cà rốt phân nhánh dạng cây. Vây lưng chia làm hai phần: phần đầu có 9-10 tia cứng, tiếp theo là một rãnh thấp rồi đến phần thứ hai, không có tia cứng, chỉ có 30-35 tia mềm. Vây ngực dài trung bình. Vây hậu môn có 2 tia cứng và 7-9 tia mềm. Vây đuôi lồi, nhọn.

Cá có thân màu vàng phía trên xậm hơn, phần bụng vàng ánh. Tất cả các vây đều màu vàng. Mép cá có khi màu đỏ. Cá thuộc loài ăn tạp ở tầng đáy, ăn các loại cá nhỏ, tôm, giáp xác. Độ sâu thích hợp nhất trong khoảng 10m tại các vùng biển có nhiệt độ giữa 23 và 34 độ C, tuy nhiên cá có khả năng thích ứng cao với nhiệt độ và độ mặn của môi trường sinh sống. Cá đẻ trứng vào mùa Xuân và mùa Thu tại những vùng nước đục nơi cửa sông đổ ra biển. Cá mái bắt đầu đẻ trứng khi 2 tuổi, và cá đực phát dục năm 3 tuổi.

Cá dài trung bình 60 cm, được khai thác ở cỡ 20–25 cm. Chiều dài tối đa có thể đến 80 cm. Cá Đù Vàng tăng trưởng khá nhanh: Cá bột vớt cỡ 0–15 cm đưa về nuôi trong lồng trong khoảng 18 tháng có trọng lượng khoảng 500-800 gram. Giá cá nuôi khoảng 20-30 USD/kg. Cá được nuôi bằng các loại thực phẩm hỗn hợp làm từ cá vụn, cá dạt theo kiểu nuôi cá vền biển.

Chất lượng thịt

Thành phần dinh dưỡng của cá đù vàng được xem là tương tự như các loài cá croaker. Cá đù vàng có thành phần chất đạm cao, chứa nhiều sinh tố và khoáng chất, bồi bổ tỳ và vị, giúp an thần, trị tiêu chảy, bồi bổ nguyên khí, là món thực phẩm tốt cho người cao niên. Lượng selen cao trong cá được xem là một yếu tố chống lão suy. Thịt cá đù vàng, mịn và dai, vảy cá nhỏ, ít xương, có hương vị đặc biệt thoảng mùi hoa tỏi, rất được ưa chuộng tại Hong Kong và Đài Loan. Cá thường được chế biến dưới các dạng cá hấp, đút lò, chiên nhanh và chiên giòn.

Lượng acid béo (thô) tổng cộng trong phần bắp thịt của cá (2 tuổi/ 170 gram) chiếm 13.1% trọng lượng phi lê. Acid béo bão hòa (SFA) chiếm 40% của tổng số lượng acid béo, trong đó palmitic acid cao nhất (27%), Acid béo chưa bão hòa đơn chiếm 37.9 % tổng lượng acid béo, oleic acid chiếm 23%, Acid béo chưa bão hòa đa chiếm 23%, Acid béo Omega-3: 19.9 % và Omega-6: 3.0%